Tuyển tập các bài thơ Nguyễn Du hay nhất

Tuyển tập các bài thơ Nguyễn Du hay nhất

Thơ Nguyễn Du phản ánh hiện thực và khắc họa những bất công trong xã hội phong kiến xưa. Với trái tim giàu lòng nhân đạo, Đại thi hào đã dùng chính ngòi bút của mình thay lời nói cho tầng lớp nhân dân thấp cổ bé họng, bị vùi xuống đáy xã hội.

Tuyển tập tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Du

Các tác phẩm của Nguyễn Du được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm gồm:

Thơ chữ Hán

  • Thanh Hiên thi tập (78 bài).
  • Nam Trung tạp ngâm (40 bài).
  • Bắc Hành tạp lục (132 bài).

Thơ chữ Nôm

  • Truyện Kiều (3254 câu).
  • Văn chiêu hồn (184 câu).
Thơ Nguyễn Du
Tuyển tập thơ Nguyễn Du

Nguyễn Du (1765-1820) là một trong những Đại thi hào của nền văn học Việt Nam. Ông được tôn vinh là Danh nhân Văn hóa Thế giới và được biết đến rộng rãi qua tác phẩm kiệt xuất Truyện Kiều.

Các bài thơ của Nguyễn Du là di sản văn học vô giá, từng câu chữ như vượt qua thời gian để mang đến giá trị nghệ thuật, nhân văn cho người đọc.

Ông có tài năng đặc biệt trong việc sử dụng ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc cùng nhạc điệu. Thơ Nguyễn Du chứa đựng bài học về nhân văn, đạo đức, sự thông cảm sâu sắc đối với con người, đặc biệt là số phận bất hạnh.

Ông không ngần ngại phê phán bất công trong xã hội phong kiến, đồng thời miêu tả chân thực sự khổ đau, bất hạnh của con người trong xã hội đó.

Nguyễn Du là tác giả của bài thơ nào?

Những bài thơ hay của Nguyễn Du bao gồm cả chữ Nôm và chữ Hán.

Thơ chữ Hán của Nguyễn Du

Trong 3 tuyển tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du có một số tác phẩm nổi bật sau:

1/ Sơn cư mạn hứng (Thanh hiên thi tập)

Nam khứ Trường An thiên lý dư,
Quần phong thâm xứ dã nhân cư.
Sài môn trú tĩnh sơn vân bế,
Dược phố xuân hàn lũng trúc sơ.
Nhất phiến hương tâm thiềm ảnh hạ,
Kinh niên biệt lệ nhạn thanh sơ.
Cố hương đệ muội âm hao tuyệt,
Bất kiến bình an nhất chỉ thư.

Tạm dịch:

Cách Trường An nghìn dặm về phía nam,
Có một người quê mùa ở trong núi sâu.
Ban ngày yên tĩnh, mây núi che kín cổng tre.
Mùa xuân lạnh, hành trúc quanh vườn thuốc trông thưa thớt.
Thơ thẩn dưới bóng trăng, lòng nhớ quê hương.
Tiếng nhạn đầu mùa khơi thêm dòng lệ biệt ly từ bao năm.
Em trai em gái ở nơi quê nhà, bấy lâu bặt hắn tin tức,
Không nhận được lá thư nào nói cho biết có bình yên hay không?

2/ Bát muộn (Thanh hiên thi tập)

Thập tải trần ai ám ngọc trừ,
Bách niên thành phủ bán hoang khư.
Yêu ma trùng điểu cao phi tận,
Chỉ uế càn khôn huyết chiến dư.
Tang tử binh tiền thiên lý lệ,
Thân bằng đăng hạ sổ hàng thư.
Ngư long lãnh lạc nhàn thu dạ,
Bách chủng u hoài vị nhất sư.

Tạm dịch:

Cái bụi che mờ thềm ngọc mười năm nay.
Thành phủ xây dựng trăm năm trước, một nửa thành gò hoang,
Các loài chim nhỏ bé đều bay lên cao hết.
Sau các cuộc huyết chiến, cõi càn khôn trở nên nhơ nhớp.
Quê nhà trong cơn binh lửa hẳn đã tiêu điều,
Ở xa muôn dặm nghĩ đến mà rơi nước mắt.
Bạn bè, bà con chỉ còn lại mấy hàng thư dưới đèn.
Đêm thu vắng, cá rồng lặng lẽ, trăm mối u hoài chưa dẹp được chút nào!

3/ My trung mạn hứng (Thanh hiên thi tập)

Chung Tử viên cầm tháo nam âm,
Trang Tích bệnh trung do Việt ngâm.
Tứ hải phong trần gia quốc lệ,
Thập tuần lao ngục tử sinh tâm.
Bình Chương di hận hà thì liễu,
Cô Trúc cao phong bất khả tầm.
Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ,
Hồng Sơn sơn hạ Quế giang thâm.

Tạm dịch:

Chung Tử gảy đàn theo điệu Nam,
Trang Tích khi ốm ngâm nga bằng tiếng Việt.
Khắp bốn bể đầy gió bụi, nghĩ tình nhà việc nước mà rơi lệ,
Mười tuần nằm trong lao tù, lòng thấp thỏm chuyện sống chết.
Bao giờ mới hết mối hận Bình Chương?
Khó mà có được phong cách cao thượng của người nước Cô Trúc.
Ta có một chút tâm sự này, không biết bày tỏ cùng ai,
Dưới chân núi Hồng, sông Quế Giang sâu thẳm.

Thơ của Nguyễn Du
Tác phẩm thuộc Thanh Hiên thi tập

4/ Sơ nguyệt (Thanh hiên thi tập)

Hấp đắc dương quang tài thướng thiên,
Sơ tam sơ tứ vị đoàn viên.
Thường Nga trang kính vi khai hạp,
Tráng sĩ loan cung bất thướng huyền.
Thiên lý quan san vô cải sắc,
Nhất đình sương lộ cộng sầu miên.
Bồi hồi chính ức Hồng sơn dạ,
Khước tại La Phù giang thuỷ biên.

Tạm dịch:

Trăng hút được ánh sáng mặt trời, vừa mới ló lên,
Mồng ba mồng bốn chưa tròn.
Tấm gương của chị Hằng Nga chưa hé nắp,
Vành cung tráng sĩ chưa mắc dây.
Ở nơi nghìn dặm quan san, trăng vẫn không thay đổi vẻ đẹp,
Đầy sân sương móc, cùng trăng nằm ngủ, lòng buồn hiu.
Bồi hồi nhớ đêm nào còn ở dưới chân núi Hồng,
Bây giờ đã ở trên bến sông La Phù.

5/ Ký hữu (Thanh hiên thi tập)

Hồng Sơn sơn nguyệt nhất luân minh,
Thiên lý Trường An thử dạ tình.
Thái phác bất toàn chân diện mục,
Nhất châu hà sự tiểu công danh.
Hữu sinh bất đới công hầu cốt,
Vô tử chung tầm thỉ lộc minh.
Tiễn sát bắc song cao ngoạ giả,
Bình cư vô sự đáo hư linh.

Tạm dịch:

Đêm nay trên núi Hồng Lĩnh, trăng sáng vằng vặc,
Ở Trường An xa ngàn dặm, tâm tình tôi thật ngao ngán.
Tôi như viên ngọc trong đá không giữ vẹn được mặt thật,
Chút công danh nho nhỏ ở một châu có đáng gì?
Sinh ra vốn chẳng mang sẵn cốt công hầu, chưa chết,
Nhất định có ngày lại làm bạn với hươu nai.
Rất thèm được như bạn được nằm khểnh bên cửa sổ phía bắc,
Thảng thích chẳng có gì bận đến tâm linh.

6/ Phượng Hoàng lộ thượng tảo hành (Nam trung tạp ngâm)

Chinh phu hoài vãng lộ,
Dạ sắc thượng mông mông.
Nguyệt lạc viên thanh ngoại,
Nhân hành hổ tích trung.
Lực suy thường uý lộ,
Phát đoản bất cấm phong.
Dã túc phùng tiều giả,
Tương liên bất tại đồng

Tạm dịch:

Khách lữ hành nghĩ đến con đường trước mặt
Sắc trời đêm vẫn còn mờ mờ
Trăn lặn ngoài nơi có tiếng vượn hú
Người đi trong chốn cọp in dấu chân
Sức yếu thường sợ sương móc
Tóc ngắn không ngại gió thổi
Đêm ngủ nơi đồng quê gặp người đốn củi
Thương nhau không vì chỗ giống nhau

7/ Điệu khuyển (Nam trung tạp ngâm)

Tuấn mã bất lão tử,
Liệt nữ vô thiện chung.
Phàm sinh phụ kỳ khí,
Thiên địa phi sở dung.
Niệm nhĩ thuộc sở súc,
Dữ nhân mao cốt đồng.
Tham tiến bất tri chỉ,
Vẫn thân hàn sơn trung.
Vẫn thân vật thán uyển,
Sổ thí vô toàn công.

Tạm dịch:

Ngựa hay không chết già
Người trinh liệt không chết yên lành
Phàm người sinh ra có khí phách khác thường
Trời đất không có chỗ dung túng
Nghĩ thương mày thuộc giống gia súc
Lông xương cũng đồng với loài người
Ham tiến không biết dừng
Bỏ mình trong núi lạnh
Bỏ mình chớ than tức
Bao lần thử sức không thành công

8/ Dạ tọa (Nam trung tạp ngâm)

Tứ bích cùng thanh náo dạ miên,
Ải sàng di hướng khúc lan biên.
Vi phong bất động sương thuỳ địa,
Tà nguyệt vô quang tinh mãn thiên.
Kim cổ nhàn sầu lai tuý hậu,
Thuần lô hương tứ tại thu tiên.
Bạch đầu sở kế duy y thực,
Hà đắc cuồng ca tự thiếu niên!

Tác phẩm của Nguyễn Du
Dạ Toa

9/ Pháo đài (Nam trung tạp ngâm)

Nam bắc xa thư khánh đại đồng,
Pháo đài hư thiết thổ thành đông.
Sơn băng thạch liệt thành do tráng,
Hán đoạt Tần tranh sự dĩ không.
Tạc giả đại khuy sinh vật đức,
Nhĩ lai bất quý sát nhân công.
Thanh bình thì tiết vô tranh chiến,
Ngưu độc ưu sừ chính trọng nông.

10/ Độ Linh giang (Nam trung tạp ngâm)

Bình sa tận xứ thuỷ thiên phù,
Hạo hạo yên ba cổ độ thu.
Nhất vọng tân nhai thông cự hải,
Lịch triều cương giới tại trung lưu.
Tam quân cựu bích phi hoàng diệp,
Bách chiến tàn hài ngoạ lục vu.
Bắc thướng thổ dân mạc tương tị,
Táp niên tiền thị ngã đồng châu.

11/ Long thành cầm giả ca (Bắc hành tạp lục)

Long thành giai nhân,
Bất ký danh tự.
Độc thiện huyền cầm,
Cử thành chi nhân dĩ cầm danh.
Học đắc tiên triều cung trung “Cung phụng” khúc,
Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh.
Dư tại thiếu niên tằng nhất kiến,
Giám Hồ hồ biên dạ khai yến.
Thử thời tam thất chánh phương niên,
Xuân phong yểm ánh đào hoa diện.
Đà nhan hám thái tối nghi nhân,
Lịch loạn ngũ thanh tuỳ thủ biến.
Hoãn như lương phong độ tùng lâm,
Thanh như chích hạc minh tại âm.
Liệt như Tiến Phúc bi đầu toái phích lịch,
Ai như Trang Tích bệnh trung vi Việt ngâm.
Thính giả mỹ mỹ bất tri quyện,
Tận thị Trung Hoà Đại Nội âm.
Tây Sơn chư thần mãn toạ tận khuynh đảo,
Triệt dạ truy hoan bất tri hiểu.
Tả phao hữu trịch tranh triền đầu,
Nê thổ kim tiền thù thảo thảo.
Hào hoa ý khí lăng công hầu,
Ngũ Lăng niên thiếu bất túc đạo.
Tính tương tam thập lục cung xuân,
Hoán thủ Trường An vô giá bảo.
Thử tịch hồi đầu nhị thập niên,
Tây Sơn bại hậu dư Nam thiên.
Chỉ xích Long Thành bất phục kiến,
Hà huống thành trung ca vũ diên.
Tuyên phủ sứ quân vị dư trùng mãi tiếu,
Tịch trung ca kỹ giai niên thiếu.
Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa,
Nhan xú thần khô hình lược tiểu.
Lang tạ tàn my bất sức trang,
Thuỳ tri tiện thị đương niên thành trung đệ nhất điệu.
Cựu khúc tân thanh ám lệ thuỳ,
Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi.
Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự,
Giám Hồ hồ biên tằng kiến chi.
Thành quách suy di nhân sự cải,
Kỷ độ tang điền biến thương hải.
Tây Sơn cơ nghiệp nhất đán tận tiêu vong,
Ca vũ không lưu nhất nhân tại.
Thuấn tức bách niên tằng kỷ thì,
Thương tâm vãng sự lệ triêm y.
Nam Hà quy lai đầu tận bạch,
Quái để giai nhân nhan sắc suy.
Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng,
Khả liên đối diện bất tương tri.

Tạm dịch:

Người đẹp Long Thành
Họ tên không được biết
Riêng thạo đàn huyền cầm
Dân trong thành gọi nàng là cô Cầm
Gảy khúc “Cung phụng” từ triều vua xưa
Một khúc đàn hay tuyệt từ trời đưa xuống thế gian.
Nhớ hồi trẻ tôi đã gặp nàng một lần
Bên hồ Giám trong một đêm yến tiệc
Tuổi cô cỡ hai mươi mốt
Áo hồng ánh lên khuôn mặt đẹp như hoa
Rượu đậm thêm nét mặt ngây thơ khả ái
Ngón tay lướt năm cung réo rắt
Tiếng khoan như gió thổi qua rừng thông
Thanh trong như đôi hạc kêu nơi xa xôi
Mạnh như sét đánh tan bia Tiến Phúc
Sầu bi như Trang Tích lúc đau ốm ngâm rên tiếng Việt
Người nghe nàng say sưa không biết mệt
Trong khúc nhạc đại nội Trung Hoà.
Quan tướng nhà Tây say rượu nghiêng ngả
Lo vui chơi suốt đêm không nghỉ
Bên phải bên trái tranh nhau cho thưởng
Tiền bạc coi thường có nghĩa chi.
Vẻ hào hoa hơn bậc vương hầu
Giới trẻ nơi Ngũ Lăng không đáng kể
Dường như ba mươi sáu cung xuân
Nay Tràng An đã hun đúc được một báu vật vô giá.
Trong đầu nhớ lại đã hai mươi năm
Tây sơn thua bại, tôi vào Nam
Long Thành gần mà cũng chẳng được thấy
Còn nói chi đến chuyện múa hát trong thành.
Nay Tuyên phủ sứ bày cuộc vui đãi tôi
Ca kỹ trẻ xinh cả một đám
Chỉ có một kẽ tóc hoa râm ngồi cuối phòng
Mặt xấu, sắc khô, người hơi nhỏ
Mày phờ phạc không điểm phấn tô son
Sao mà đoán được người này là đệ nhất danh ca một thời.
Điệu nhạc xưa làm ta thầm nhỏ lệ
Lắng tai nghe lòng càng đau xót
Tự nhiên nhớ lại hai mươi năm trước
Bên hồ Giám trong dạ tiệc ta đã thấy nàng
Thành quách đã chuyển, người cũng đổi thay
Nương dâu trở thành biển cả đã nhiều
Cơ nghiệp Tây sơn cũng đà tiêu tán
Sót lại đây còn người múa ca.
Thấm thoắt trăm năm có là bao
Cảm thương chuyện cũ dùng áo thấm nước mắt
Ta từ Nam trở lại, đầu bạc trắng
Trách làm sao được sắc đẹp cũng suy tàn.
Hai mắt trừng lên tưởng nhớ chuyện xưa
Thương cho đối mặt mà chẳng nhìn nhận ra nhau.

12/ Ngộ gia đệ cựu ca cơ (Bắc hành tạp lục)

Phồn hoa nhân vật loạn lai phi,
Huyền hạc quy lai kỷ cá tri.
Hồng tụ tằng văn ca uyển chuyển,
Bạch đầu tương kiến khốc lưu ly.
Phúc bồn dĩ hĩ nan thâu thuỷ,
Đoạn ngẫu thương tai vị tuyệt ty.
Kiến thuyết giá nhân dĩ tam tử,
Khả liên do trước khứ thời y.

Tạm dịch:

Sau buổi loạn lạc, nhân vật nơi chốn phồn hoa đã khác xưa.
Con chim hạc đen bay trở lại, nào mấy ai biết?
Ta từng nghe giọng ca uyển chuyển của nàng lúc xưa mặc áo hồng.
Nay đầu đã bạc, mới gặp lại nhau, nghe nàng than thở nỗi lưu ly.
Chậu nước đã đổ rồi, khó lòng vét lại.
Thương cho ngó sen đã đứt mà tơ vẫn còn vương.
Nghe nói nàng đã có chồng và đã có ba con.
Ái ngại thay nàng vẫn phải mặc cái áo xưa (vẫn làm ca cơ).

13/ Tây Dà dịch (Bắc hành tạp lục)

Thanh thạch kiều tây ngạn,
Y nhiên tiểu lý lư.
Đạo bàng nhân ngữ tạp,
Ốc hậu trúc âm sơ.
Hoà bản cung thần thiếu,
Xuân liên đãi tuế trừ.
Tương phùng vô biệt thoại,
Nhất tiếu ý hà như.

Tạm dịch:

Bên bờ phía tây cầu đá xanh
Xóm nhỏ vẫn như cũ
Bên đường tiếng người tạp nhạp
Sau nhà bóng trúc thưa
Gốc rạ dành để đốt lửa sớm
Câu đối xuân chờ hết năm cũ
Gặp nhau không nói năng gì
Chỉ cười, ý ra sao

14/ Sở kiến hành (Bắc hành tạp lục)

Hữu phụ huề tam nhi,
Tương tương toạ đạo bàng.
Tiểu giả tại hoài trung,
Đại giả trì trúc khuông.
Khuông trung hà sở thịnh,
Lê hoắc tạp tì khang.
Nhật án bất đắc thực,
Y quần hà khuông nhương.
Kiến nhân bất ngưỡng thị,
Lệ lưu khâm lang lang.
Quần nhi thả hỉ tiếu,
Bất tri mẫu tâm thương.
Mẫu tâm thương như hà,
Tuế cơ lưu dị hương.
Dị hương sảo phong thục,
Mễ giá bất thậm ngang.
Bất tích khí hương thổ,
Cẩu đồ cứu sinh phương.
Nhất nhân kiệt dung lực,
Bất sung tứ khẩu lương.
Duyên nhai nhật khất thực,
Thử kế an khả trường.
Nhãn hạ uỷ câu hác,
Huyết nhục tự sài lang.
Mẫu tử bất túc tuất,
Phủ nhi tăng đoạn trường.
Kỳ thống tại tâm đầu,
Thiên nhật giai vị hoàng.
Âm phong phiêu nhiên chí,
Hành nhân diệc thê hoàng.
Tạc tiêu Tây Hà dịch,
Cung cụ hà trương hoàng.
Lộc cân tạp ngư sí,
Mãn trác trần trư dương.
Trưởng quan bất hạ trợ,
Tiểu môn chỉ lược thường.
Bát khí vô cố tích,
Lân cẩu yếm cao lương.
Bất tri quan đạo thượng,
Hữu thử cùng nhi nương.
Thuỳ nhân tả thử đồ,
Trì dĩ phụng quân vương.

Tạm dịch:

Có người đàn bà dắt ba đứa con
Cùng nhau ngồi bên đường
Đứa nhỏ trong bụng mẹ
Đứa lớn cầm giỏ tre
Trong giỏ đựng gì lắm thế?
Rau lê, hoắc lẫn cám
Qua trưa rồi chưa được ăn
Áo quần sao mà rách rưới quá
Thấy người không ngẩng nhìn
Nước mắt chảy ròng ròng trên áo
Lũ con vẫn vui cười
Không biết lòng mẹ đau
Lòng mẹ đau ra sao?
Năm đói lưu lạc đến làng khác
Làng khác mùa màng tốt hơn
Giá gạo không cao quá
Không hối tiếc đã bỏ làng đi
Miễn sao tìm được phương tiện sống
Một người làm hết sức
Không đủ nuôi bốn miệng ăn
Dọc đường mỗi ngày đi ăn mày
Cách ấy làm sao kéo dài mãi được
Thấy trước mắt cái lúc bỏ xác bên ngòi rãnh
Máu thịt nuôi lang sói
Mẹ chết không thương tiếc
Vỗ về con càng thêm đứt ruột
Trong lòng đau xót lạ thường
Mặt trời vì thế phải vàng uá
Gió lạnh bỗng ào tới
Người đi đường cũng đau đớn làm sao
Đêm qua ở trạm Tây Hà
Tiệc tùng cung phụng khoa trương quá mức
Gân hươu cùng vây cá
Đầy bàn thịt heo, thịt dê
Quan lớn không thèm đụng đũa
Đám theo hầu chỉ nếm qua
Vứt bỏ không luyến tiếc
Chó hàng xóm cũng ngán món ăn ngon
Không biết trên đường cái
Có mẹ con đói khổ nhà này
Ai người vẽ bức tranh đó
Đem dâng lên nhà vua

15/ Chu phát (Bắc hành tạp lục)

Khứ biến đông nam lộ,
Thông thông tuế dục chu.
Sử tòng Giang Hán khẩu,
Lai phiếm Động Đình chu.
Nhân bỉ lai thì sấu,
Giang đồng khứ nhật thu.
Hạc lâu thành vịnh xứ,
Bạch vân không du du.

Tạm dịch:

Đi khắp đường đông nam
Thấm thoát năm gần hết
Thuận theo cửa sông Giang Hán
Dong thuyền qua hồ Động Đình
Người gầy hơn so với lần đến
Sông vẫn là thu ngày trước
Ở chỗ vịnh thơ lầu thơ hạc cũ
Mây trắng cứ lững lờ trôi

Những bài thơ chữ Nôm của Nguyễn Du

Nói đến thơ chữ Nôm của Nguyễn Du thì không thể bỏ qua Truyện Kiều và Văn chiêu hồn.

1/ Hồi 1

Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu.
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
5. Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Cảo thơm lần giở trước đèn,
Phong tình có lục còn truyền sử xanh.
Rằng: năm Gia Tĩnh triều Minh,
10. Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng.
Có nhà viên ngoại họ Vương,
Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung,
Một trai con thứ rốt lòng,
Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia.
15. Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần.
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
20. Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc vẫn là phần hơn.
25. Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
30. Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung, thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên “Bạc mệnh” lại càng não nhân.
35. Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

Tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Du
Hồi 1 – Giới thiệu Kiều và nhà họ Vương

2/ Hồi 2

Ngày xuân con én đưa thoi,
40. Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Thanh minh, trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
45. Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
50. Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay

Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước lần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
55. Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Sè sè nấm đất bên đường,
Dầu dầu ngọn cỏ, nửa vàng nửa xanh,
Rằng: Sao trong tiết Thanh minh,
60. Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?
Vương Quan mới dẫn gần xa:
Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi
Nổi danh tài sắc một thì,
Xôn xao ngoài của, hiếm gì yến anh.
65. Phận hồng nhan có mong manh,
Nửa chừng xuân, thoắt gẫy cành thiên hương
Có người khách ở viễn phương,
Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi
Thuyền tình vừa ghé đến nơi,
70. Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ!
Buồng không lạnh ngắt như tờ,
Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh
Khóc than khôn xiết sự tình,
Khéo vô duyên bấy là mình với ta.
75. Đã không duyên trước chăng mà,
Thì chi chút ước gọi là duyên sau.
Sắm sanh nếp tử, xe châu,
Vùi nông một nấm, mặc dầu cỏ hoa.
Trải bao thỏ lặn, ác tà,
80. Ấy mồ vô chủ, ai mà viếng thăm!

Lòng đâu sẵn món thương tâm
Thoạt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa:
Đau đớn thay, phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
85. Phũ phàng chi bấy Hoá công!
Ngày xanh mòn mỏi, má hồng phôi pha
Sống làm vợ khắp người ta
Hại thay! Thác xuống làm ma không chồng!
Nào người phượng chạ, loan chung,
90. Nào người tiếc lục tham hồng là ai?
Đã không kẻ đoái, người hoài,
Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương
Gọi là gặp gỡ giữa đường,
Hoạ là người dưới suối vàng biết cho.

95. Lâm râm khấn khứa nhỏ to
Sụp ngồi, vài gật trước mồ, bước ra.
Một vùng cỏ áy bóng tà,
Gió hiu hiu thổi một và bông lau.
Rút trâm sẵn dắt mái đầu
100. Vạch da cây, vịnh bốn câu ba vần.
Lại càng mê mẩn tâm thần,
Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra
Lại càng ủ dột nét hoa
Sầu tuôn đứt nối, chân sa vắn dài!

105. Vân rằng: Chị cũng nực cười,
Khéo dư nước mắt, khóc người đời xưa!
Rằng: Hồng nhan tự nghìn xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu
Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
110. Thấy người nằm đó, biết sau thế nào?
Quan rằng: Chị nói hay sao,
Mỗi lời là một vận vào khó nghe!
Ở đây âm khí nặng nề,
Bóng chiều đã ngã, dậm về còn xa.
115. Kiều rằng: Những đấng tài hoa,
Thác là thể phách, còn là tinh anh
Dễ hay tình lại gặp tình,
Chờ xem, ắt thấy hiển linh bây giờ.

Một lời nói chửa kịp thưa,
120. Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay,
Ào ào đổ lộc, rung cây,
Ở trong dường có hương bay ít nhiều
Dè chừng ngọn gió lần theo,
Dấu giày từng bước in rêu rành rành
125. Mặt nhìn ai nấy đều kinh,
Nàng rằng: Này thực tinh thành chẳng xa
Hữu tình ta lại gặp ta,
Chớ nề u hiển, mới là chị em.
Đã lòng hiển hiện cho xem,
130. Tạ lòng, nàng lại nối thêm vài lời
Lòng thơ lai láng bồi hồi,
Gốc cây, lại vạch một bài cổ thi.

Dùng dằng nửa ở nửa về,
Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.
135. Trông chừng thấy một văn nhân,
Lỏng buông tay khấu, bước lần dặm băng.
Đề huề lưng túi gió trăng,
Sau lưng theo một vài thằng con con.
Tuyết in sắc ngựa câu dòn,
140. Cỏ pha mùi áo nhuộm non da trời.
Nẻo xa mới tỏ mặt người,
Khách đà xuống ngựa, tới nơi tự tình
Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh, cành giao
145. Chàng Vương quen mặt ra chào,
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa.
Nguyên người quanh quất đâu xa,
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh.
Nền phú hậu, bậc tài danh,
150. Văn chương nết đất, thông minh tính trời
Phong tư tài mạo tuyệt vời,
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa

Chung quanh vẫn đất nước nhà,
Với Vương Quan trước vẫn là đồng thân.
155. Trộm nghe thơm nức hương lân,
Một nền Đồng Tước khoá xuân hai Kiều.
Nước non cách mấy buồng thêu,
Những là trộm dấu, thầm yêu chốc mòng.
May thay giải cấu tương phùng,
160. Gặp tuần đố lá thoả lòng tìm hoa.
Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,
Xuân lan, thu cúc, mặn mà cả hai

Người quốc sắc, kẻ thiên tài,
Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.
165. Chập chờn cơn tỉnh, cơn mê,
Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn.
Bóng tà như giục cơn buồn
Khách đà lên ngựa, người còn ghé theo
Dưới dòng nước chảy trong veo,
170. Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.

3/ Hồi 6

Trông chừng khói ngất song thưa
Hoa trôi trác thắm, liễu xơ xác vàng
Tần ngần dạo ngót lầu trang
Một đoàn mừng thọ ngoại hương mới về
575. Hàn huyên chưa kịp giãi giề
Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao:
Người nách thước, kẻ tay đao,
Đầu trâu, mặt ngựa, ào ào như sôi
Già giang một lão một trai
580. Một dây vô lại buộc hai thâm tình
Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh
Rụng rời khung cửi, tan tành gói may.
Đồ tế nhuyễn, của riêng tây
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham
585. Điều đâu bay buộc ai làm?
Này ai đan giậm, giật giàm bỗng dưng?
Hỏi ra sau mới biết rằng:
Phải tên xưng xuất tại thằng bán tơ.
Một nhà hoảng hốt, ngẩn ngơ
590. Tiếng oan dậy đất, án ngờ loà mây

Hạ từ van lạy suốt ngày,
Điếc tai lân tuất, phũ tay tồi tàn
Rường cao rút ngược dây oan,
Dẫu là đá cũng nát gan lọ người!
595. Mặt trông đau đớn rụng rời
Oan này còn một kêu trời nhưng xa
Một ngày lạ thói sai nha
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền
Sao cho cốt nhục vẹn tuyền?
600. Trong khi ngộ biến tòng quyền biết sao?
Duyên hội ngộ, đức cù lao
Bên tình, bên hiếu, bên nào nặng hơn?
Để lời thệ hải minh sơn
Làm con trước phải đền ơn sinh thành
605. Quyết tình, nàng mới hạ tình:
Rẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha!
Họ Chung có kẻ lại già,
Cũng trong nha dịch, lại là từ tâm,
Thấy nàng hiếu trọng tình thâm
610. Vì nàng, nghĩ cũng thương thầm xót vay
Tính bài lót đó luồn đây,
Có ba trăm lượng, việc này mới xuôi,
Hãy về tạm phó giam ngoài,
Dặn nàng qui liệu trong đôi ba ngày.
615. Thương lòng con trẻ thơ ngây
Gặp cơn vạ gió, tai bay bất kỳ.
Đau lòng tử biệt sinh ly!
Thân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên!

Hạt mưa sá nghĩ phận hèn
620. Liệu đem tấc cỏ quyết đền ba xuân
Sự lòng ngỏ với băng nhân
Tin sương đồn đại, xa gần xôn xao
Gần miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh
625. Hỏi tên rằng: Mã Giám Sinh;
Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao
Trước thầy, sau tớ, xôn xao
630. Nhà băng đưa mối, rước vào lầu trang
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng
635. Ngại ngùng dín gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày
Mối càng vén tóc bắt tay
Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai
Đắn đo cân sắc cân tài
640. Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ
Mặn nồng một vẻ một ưa
Bằng lòng khách mới tuỳ cơ dặt dìu
Rằng: Mua ngọc đến Lam Kiều,
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường.
645. Mối rằng: Đáng giá nghìn vàng,
Dớp nhà nhờ lượng người thương dám nài!
Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lân ngã giá vàng ngoài bốn trăm
Một lời thuyền đã êm dầm
650. Hãy đưa canh thiếp trước cầm làm ghi
Định ngày nạp thái vu quy
Tiền lưng đã có, việc gì chẳng xong!

Một lời cậy với Chung công,
Khất từ tạm lĩnh Vương ông về nhà
655. Thương tình con trẻ cha già
Nhìn nàng, ông những máu sa, ruột dầu
Nuôi con những ước về sau
Trao tơ phải lứa, gieo cầu đáng nơi
Trời làm chi cực bấy trời!
660. Này ai vu thác, cho người hợp tan?
Búa rìu bao quản thân tàn,
Nỡ đày doạ trẻ, càng oan khốc già
Một lần sau trước cũng là
Thôi thì mặt khuất, chẳng thà lòng đau!
665. Theo lời càng chảy dòng châu
Liều mình, ông đã gieo đầu tường vôi
Vội vàng kẻ giữ người coi
Nhỏ to, nàng lại tìm lời khuyên can:
Vẻ chi một mảnh hồng nhan
670. Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành
Dâng thư đã thẹn nàng Oanh,
Lại thua ả Lý bán mình hay sao?
Cỗi xuân tuổi hạc càng cao,
Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành
675. Lòng tơ dầu chẳng dứt tình
Gió mưa âu hẳn tan tành nước non
Thà rằng liều một thân con
Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây
Phận sao đành vậy cũng vầy
680. Cầm như chẳng đậu những ngày còn xanh
Cũng đừng tính quẩn lo quanh
Tan nhà là một, thiệt mình là hai.
Phải lời ông cũng êm tai
Nhìn nhau giọt ngắn, giọt dài ngổn ngang

685. Mái ngoài họ Mã vừa sang
Tờ hoa đã ký, cân vàng mới trao
Trăng già độc địa làm sao!
Cầm dây chẳng lựa, buộc vào tự nhiên!
Trong tay đã sẵn đồng tiền
690. Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì,
Họ Chung ra sức giúp vì!
Lễ tâm đã đặt, tụng kỳ cũng xong
Việc nhà đã tạm thong dong
Tinh kỳ giục giã đã mong độ về

4/ Hồi 7

695. Một mình nàng, ngọn đèn khuya
Áo dầm giọt lệ, tóc se mái sầu
Phận dầu, dầu vậy cũng dầu
Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời!
Công trình kể biết mấy mươi
700. Vì ta khắng khít cho người dở dang
Thề hoa chưa ráo chén vàng
Lỗi thề thôi đã phũ phàng với hoa!
Trời Liêu non nước bao xa,
Nghĩ đâu rẽ cửa, chia nhà tự tôi!
705. Biết bao duyên nợ thề bồi
Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì?
Tái sinh chưa dứt hương thề,
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai
Nợ tình chưa trả cho ai
710. Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan!
Nỗi riêng, riêng những bàn hoàn
Dầu chong trắng dã, lệ tràn thấm khăn

Thuý Vân chợt tỉnh giấc xuân
Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han:
715. Cơ trời dâu bể đa đoan
Một nhà để chị riêng oan một mình
Cớ gì ngồi nhẫn tàn canh
Nỗi riêng còn mắc với tình chi đây?
Rằng: Lòng đương thổn thức đầy,
720. Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong
Hở môi ra cũng thẹn thùng
Để lòng thì phụ tấm lòng với ai!

Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa:
725. Giữa đường đứt gánh tương tư
Giao loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kỳ
730. Hiếu tình có lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ, thay lời nước non
Chị dầu thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
735. Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung
Dầu em nên vợ, nên chồng,
Xót người mệnh bạc, ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
740. Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa
Mai sau, dầu có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này;
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
745. Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rảy xin chén nước cho người thác oan
Bây giờ trâm gãy bình tan
750. Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân!
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
755. Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây!
Cạn lời, hồn ngất máu say
Một hơi lạng ngắt, đôi tay lạnh đồng

Xuân huyên chợt tỉnh giấc nồng
760. Một nhà tấp nập, kẻ trong người ngoài
Kẻ thang, người thuốc bời bời
Mới giầu cơn vựng, chưa phai giọt hồng
Hỏi: Sao ra sự lạ lùng?
Kiều càng nức nở, mở không ra lời
765. Nỗi nàng, Vân mới rỉ tai:
Chiếc vành này với tờ bồi ở đây…
Này cha làm lỗi duyên mày,
Thôi thì nỗi ấy sau này đã em!
Vì ai rụng cải, rơi kim
770. Để còn bèo nổi, mây chìm vì ai?
Lời con dặn lại một hai
Dẫu mòn bia đá, dám sai tấc vàng!
Lạy thôi, nàng lại rén chiềng:
Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi
775. Sá chi thân phận tôi đòi
Dẫu rằng xương trắng quê người, quản đâu!
Xiết bao kể nỗi thảm sầu!
Khắc canh đã giục nam lâu mấy hồi
Kiệu hoa đâu đã đến ngoài,
780. Quản huyền đâu đã giục người sinh ly
Đau lòng kẻ ở, người đi
Lệ rơi thấm đá, tơ chia rũ tằm
Trời hôm, mây kéo tối rầm
Dầu dầu ngọn cỏ, đầm đầm cành sương

785. Rước nàng về đến trú phường,
Bốn bề xuân toả, một nàng ở trong
Ngập ngừng thẹn lục e hồng
Nghĩ lòng, lại xót xa lòng đòi phen
Phẩm tiên rơi đến tay hèn
790. Hoài công nắng giữ mưa gìn với ai!
Biết thân đến bước lạc loài
Nhị đào thà bẻ cho người tình chung!
Vì ai ngăn đón gió đông
Thiệt lòng khi ở, đau lòng khi đi
795. Trùng phùng dầu hoạ có khi
Thân này thôi có còn gì mà mong!
Đã sinh ra số long đong,
Còn mang lấy kiếp má hồng được sao?
Trên yên sẵn có con dao
800. Giấu cầm nàng đã gói vào chéo khăn
Phòng khi nước đã đến chân,
Dao này thì liệu với thân sau này.

5/ Hồi 8

Đêm thu một khắc một chầy,
Bâng khuâng như tỉnh như say một mình
805. Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh,
Vẫn là một đứa phong tình đã quen
Quá chơi lại gặp hồi đen
Quen mồi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa
Lầu xanh có mụ Tú Bà,
810. Làng chơi đã trở về già hết duyên
Tình cờ chẳng hẹn mà nên
Mạt cưa mướp đắng, đôi bên một phường
Chung lưng mở một ngôi hàng
Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề
815. Dạo tìm khắp chợ thì quê
Giả danh hầu hạ, dạy nghề ăn chơi
Rủi may, âu cũng sự trời
Đoạn trường lại chọn mặt người vô duyên
Xót nàng chút phận thuyền quyên
820. Cành hoa đem bán vào thuyền lái buôn
Mẹo lừa đã mắc vào khuôn
Sính nghi rẻ giá, nghinh hôn sẵn ngày
Mừng thầm cờ đã đến tay
Càng nhìn vẻ ngọc, càng say khúc vàng
825. Đã nên quốc sắc, thiên hương
Một cười này hẳn nghìn vàng chẳng ngoa!
Về đây nước trước bẻ hoa
Vương tôn, quý khách, ắt là đua nhau
Hẳn ba trăm lạng kém đâu
830. Cũng đà vừa vốn, còn sau là lời.

Miếng ngon kề đến tận nơi
Vốn nhà cũng tiếc, của trời cũng tham
Đào tiên đã bén tay phàm
Thì vin cành quít cho cam sự đời
835. Dưới trần mấy mặt làng chơi,
Chơi hoa, đã dễ mấy người biết hoa!
Nước vỏ lựu, máu mào gà
Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên
Mập mờ đánh lận con đen,
840. Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền, mất chi?
Mụ già hoặc có điều gì
Liều công mất một buổi quỳ mà thôi
Vả đây đường sá xa xôi
Mà ta bất động, nữa người sinh nghi.
845. Tiếc thay một đoá trà mi!
Con ong đã mở đường đi lối về
Một cơn mưa gió nặng nề
Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương
Đêm xuân một giấc mơ màng
850. Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ
Giọt riêng tầm tã tuôn mưa
Phần căm nỗi khách, phần dơ nỗi mình
Tuồng chi là giống hôi tanh!
Thân nghìn vàng để ô danh má hồng!
855. Thôi còn chi nữa mà mong
Đời người thôi thế là xong một đời!
Giận duyên, tủi phận, bời bời
Cầm dao, nàng đã toan bài quyên sinh
Nghĩ đi nghĩ lại một mình:
860. Một mình thì chớ, hai tình thì sao?
Sau dầu sinh sự thế nào
Truy nguyên chẳng kẻo luỵ vào song thân
Nỗi mình âu cũng giãn dần
Kíp chầy thôi cũng một lần mà thôi!

865. Những là đo đắn ngược xuôi
Tiếng gà nghe đã gáy sôi mái tường
Lầu mai vừa rúc còi sương
Mã Sinh giục giã vội vàng ra đi
Đoạn trường thay lúc phân kỳ
870. Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh
Bề ngoài mười dặm trường đình
Vương ông mở tiệc tiễn hành đưa theo
Ngoài thì chủ khách dập dìu
Một nhà huyên với một Kiều ở trong
875. Nhìn càng lã chã giọt hồng
Rỉ tai, nàng mới giải lòng thấp cao:
Hổ sinh ra phận thơ đào,
Công cha, nghĩa mẹ kiếp nào trả xong?
Lỡ làng nước đục, bụi trong
880. Trăm năm để một tấm lòng từ đây
Xem gương trong bấy nhiêu ngày
Thân con chẳng kẻo mắt tay bợm già:
Khi về, bỏ vắng trong nhà,
Khi vào dùng dắng, khi ra vội vàng
885. Khi ăn, khi nói lỡ làng
Khi thầy, khi tớ, xem thường, xem khinh
Khác màu kẻ quý, người thanh
Ngắm ra cho kỹ, như tình con buôn

Thôi con, còn nói chi con,
890. Sống nhờ đất khách, thác chôn quê người!
Vương bà nghe bấy nhiêu lời
Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên
Vài tuần chưa cạn chén khuyên
Mái ngoài, nghỉ đã giục liền ruổi xe
895. Xót con lòng nặng chề chề
Trước yên ông đã nằn nì thấp cao:
Chúng thân yếu liễu thơ đào
Dớp nhà đến nỗi giấn vào tôi ngươi
Từ đây góc bể chân trời
900. Nắng mưa thui thủi, quê người một thân
Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân
Tuyết sương che chở cho thân cát đằng
Cạn lời khách mới thưa rằng:
Buộc chân, thôi cũng xích thằng nhiệm trao
905. Mai sau dầu đến thế nào
Kìa gương nhật nguyệt, nọ dao quỷ thần!

Đùng đùng gió giục mây vần
Một xe trong cõi hồng trần như bay
Trông vời, gạt lệ, phân tay
910. Góc trời thăm thẳm, ngày ngày đăm đăm.
Nàng thì dặm khách xa xăm
Bạc phau cầu giá, đen rầm ngàn mây
Vi lô san sát hơi may
Một trời thu để riêng ai một người
915. Dặm khuya ngất tạnh mù khơi
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông
Rừng thu từng biếc chen hồng
Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn.

6/ Hồi 9

Những là lạ nước, lạ non
920. Lâm Chuy vừa một tháng tròn tới nơi
Xe châu dừng bánh cửa ngoài
Rèm trong đã thấy một người bước ra
Thoạt trông lờn lợt màu da
Ăn gì cao lớn, đẫy đà làm sao?
925. Trước xe lơi lả han chào
Vâng lời, nàng mới bước vào tận nơi
Bên thì mấy ả mày ngài
Bên thì ngồi bốn năm người làng chơi
Giữa thì hương lửa hẳn hoi
930. Trên treo một tượng trắng đôi lông mày
Lầu xanh quen thói xưa nay
Nghề này thì lấy ông này tiên sư
Hương hoa hôm sớm phụng thờ
Cô nào xấu vía, có thưa mối hàng
935. Cởi xiêm, lột áo chán chường
Trước thần, sẽ nguyện mảnh hương lầm rầm
Đổi hoa lót xuống chiếu nằm
Bướm ong bay lại ầm ầm tứ vi
Kiều còn ngơ ngẩn biết gì,
940. Cứ lời lạy xuống, mụ thì khấn ngay:
Cửa hàng buôn bán cho may
Đêm đêm hàn thực, ngày ngày nguyên tiêu
Muôn nghìn người thấy cũng yêu
Xôn xao anh yến, dập dìu trúc mai
945. Tin nhạn vẩn lá thư bài
Đưa người cửa trước, rước người cửa sau!

Lạ tai nghe chửa biết đâu
Xem tình ra cũng những màu dở dang
Lễ xong hương hoả gia đường
950. Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay
Dạy rằng: Con lạy mẹ đây,
Lạy rồi sang lạy cậu mày bên kia.
Nàng rằng: Phải bước lưu ly,
Phận hèn vâng đã cam bề tiểu tinh
955. Điều đâu lấy yến làm anh
Ngây thơ chẳng biết là danh phận gì?
Đủ điều nạp thái vu quy;
Đã khi chung chạ, lại khi đứng ngồi
Giờ ra thay bậc đổi ngôi
960. Dám xin gửi lại một lời cho minh.
Mụ nghe nàng nói hay tình
Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên:
Này này sự đã quả nhiên
Thôi đà cướp sống chồng min đi rồi!
965. Bảo rằng: Đi dạo lấy người
Đem về rước khách kiếm lời mà ăn
Tuồng vô nghĩa, ở bất nhân
Buồn mình trước đã tần mần thử chơi
Màu hồ đã mất đi rồi
970. Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma!
Con kia đã bán cho ta
Nhập gia phải cứ phép nhà tao đây
Lão kia có giở bài bây,
Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe?
975. Cớ sao chịu tốt một bề
Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao!
Phải làm cho biết phép tao!
Chập bì tiên, rắp sấn vào ra tay
Nàng rằng: Trời thẳm đất dày
980. Thân này đã bỏ những ngày ra đi!
Thôi thì thôi có tiếc gì!
Sẵn dao tay áo, tức thì giơ ra
Sợ gan, nát ngọc liều hoa
Mụ còn trông mặt, nàng đà quá tay
985. Thương ôi, tài sắc bậc này
Một dao oan nghiệt, dứt dây phong trần!
Nỗi oan vỡ lở xa gần
Trong nhà người chật một lầu như nêm
Nàng thì bằn bặt giấc tiên
990. Mụ thì cầm cập, mặt nhìn hồn bay

7/ Hồi 10

Vực nàng vào chốn hiên tây
Cắt người coi sóc, rước thầy thuốc men
Nào hay chưa hết trần duyên
Trong mê đường đã đứng bên một nàng
995. Rỉ rằng: Nhân quả dở dang,
Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao!
Số còn nặng nghiệp má đào
Người dầu muốn quyết, trời nào đã cho?
Hãy xin hết kiếp liễu bồ
1000. Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau.
Thuốc thang suốt một ngày thâu
Giấc mê nghe đã giầu giầu vừa tan

Tú Bà chực sẵn bên màn
Lựa lời khuyên giải mơn man gỡ dần:
1005. Một người đễ có mấy thân!
Hoa xuân đương nhuỵ, ngày xuân còn dài
Cũng là lỡ một lầm hai
Đá vàng sao nỡ ép nài mây mưa!
Lỡ chân trót đã vào đây
1010. Khoá buồng xuân để đợi ngày đào non
Người còn thì của hãy còn
Tìm nơi xứng đáng là con cái nhà
Làm chi tội báo oan gia
Thiệt mình mà hại đến ta hay gì?
1015. Kề tai mấy nỗi nằn nì
Nàng nghe dường cũng thị phi rạch ròi
Vả trong thần mộng mấy lời
Túc nhân âu cũng có trời ở trong
Kiếp này nợ trả chưa xong
1020. Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau?
Lặng nghe thấm thía gót đầu
Thưa rằng: Ai có muốn đâu thế này
Được như lời thế là may
Hẳn rằng mai có như vầy được chăng?
1025. Sợ khi ong bướm đãi đằng
Đến điều sống đục, sao bằng thác trong!
Mụ rằng: Con hãy thong dong
Phải điều lòng lại dối lòng mà chơi!
Mai sau ở chẳng như lời
1030. Trên đầu có bóng mặt rời rạng soi.
Thấy lời quyết đoán hẳn hoi
Đành lòng, nàng cũng sẽ nguôi nguôi dần

Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
1035. Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình, nủa cảnh, như chia tấm lòng
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
1040. Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
1045. Sân Lai cách mấy nắng mưa?
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
1050. Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

1055. Chung quanh những nước non người
Đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu.
Ngậm ngùi rủ bức rèm châu
Cách tường nghe có tiếng đâu hoạ vần
Một chàng vừa trạc thanh xuân
1060. Hình dung chải chuốt, áo khăn dịu dàng
Nghĩ rằng cũng mạch thư hương
Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh
Bóng nga thấp thoáng dưới mành
Trông nàng, chàng cũng ra tình đeo đai
1065. Than ôi! Sắc nước hương trời!
Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây!
Giá đành trông nguyệt trên mây
Hoa sao, hoa khéo đoạ đày bấy hoa?
Nỗi gan riêng giận trời già
1070. Lòng này ai tỏ cho ta, hỡi lòng?
Thuyền quyên ví biết anh hùng
Ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi!
Song thu đã khép cánh ngoài
Tai còn đồng vọng mấy lời sắt đanh
1075. Nghĩ người thôi lại nghĩ mình
Cám lòng chua xót, lạt tình chơ vơ
Những là lần lữa nắng mưa
Kiếp phong trần biết bao giờ là thôi?
Đánh liều nhắn một hai lời
1080. Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân
Mảnh tiên kể hết xa gần
Nỗi nhà báo đáp, nỗi thân lạc loài
Tan sương vừa rạng ngày mai
Tiện hồng nàng mới nhắn lời gửi sang

1085. Trời tây lãng đãng bóng vàng
Phúc thư đã thấy tin chàng đến nơi
Mở xem một bức tiên mai
Rành rành “tích việt” có hai chữ đề
Lấy trong ý tứ mà suy:
1090. Ngày hai mươi mốt, tuất thì phải chăng?
Chim hôm thoi thót về rừng
Đoá trà mi đã ngậm trăng nửa vành
Tường đông lay động bóng cành
Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào
1095. Sượng sùng đánh dạn ra chào
Lạy thôi, nàng mới rỉ trao ân cần
Rằng: Tôi bèo bọt chút thân
Lạc đàn mang lấy nợ nần yến anh
Dám nhờ cốt nhục tử sinh
1100. Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau!
Lặng ngồi lẩm nhẩm gật đầu:
Ta đây phải mượn ai đâu mà rằng!
Nàng đà biết đến ta chăng
Bể trầm luân lấp cho bằng mới thôi!
1105. Nàng rằng: Muôn sự ơn người
Thế nào xin quyết một bài cho xong.
Rằng: Ta có ngựa truy phong
Có tên dưới trướng, vốn dòng kiện nhi
Thừa cơ lẻn bước ra đi
1110. Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn?
Dầu khi gió kép mưa đơn
Có ta đây cũng chẳng can cớ gì!

Nghe lời, nàng đã sinh nghi
Song đà quá đỗi, quản gì được thân
1115. Cũng liều nhắm mắt đưa chân
Mà xem con Tạo xoay vần đến đâu!
Cùng nhau lẻn bước xuống lầu
Song song ngựa trước, ngựa sau một đoàn
Đêm thu khắc lậu canh tàn
1120. Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương
Lối mòn cỏ lợt mùi sương
Lòng quê đi một bước đường một đau

Lời kết

Thơ Nguyễn Du ảnh hưởng lớn tới nền văn học hiện đại. Dù đã đi xa nhưng các tác phẩm ông để lại cho đời sau vẫn còn nguyên giá trị. Chẳng phải tự nhiên ông được mệnh danh là Đại thi hào của dân tộc Việt Nam trong suốt thời gian qua.

vanthovietnam

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *